Quan hệ thương mại giữa hai nước đến nay vẫn đang phát triển khá ổn định về cả giá trị và cơ cấu mặt hàng xuất, nhập khẩu. Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, kim ngạch xuất, nhập khẩu của Việt Nam với Thụy Điển cụ thể như sau:
Kim ngạch (triệu USD) Cả năm 2013 10 tháng đầu năm 2014
- Xuất khẩu 907,1 785,4
- Nhập khẩu 226,9 199,2
- Xuất siêu 680,2 586,2
Kim ngạch xuất nhập khẩu 1.134,0 984,6
Theo thống kê gần nhất của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, lũy kế các dự án đầu tư còn hiệu lực của Thụy Điển đến ngày 20 tháng 11 năm 2014, Thụy Điển hiện đứng ở vị trí thứ 47 trong tổng số 101 nước/vùng lãnh thổ hiện có dự án đầu tư tại Việt Nam với 39 dự án còn hiệu lực và tổng vốn đầu tư đăng ký xấp xỉ 70 triệu USD.
1. TÌNH HÌNH KINH TẾ THỤY ĐIỂN NĂM 2014
Trong bối cảnh năm 2014 tình hình chính trị xã hội khu vực Châu Âu diễn biến hết sức phức tạp từ khủng hoảng chính trị và xung đột leo thang tại Ucraina, tình hình chính trị bất ổn giữa các Đảng phái trong nội bộ Thụy Điển, tuy nhiên tiếp nối những thành tựu và chính sách kinh tế vĩ mô của Chính phủ cũ, dưới sự điều hành của Chính phủ mới do Thủ tướng Stefan Löfven (đại diện của Đảng Dân chủ Xã hội) đứng đầu, nền kinh tế Thụy Điển đã và đang duy trì đà phục hồi tăng trưởng từng bước với những kết quả tích cực. Cụ thể, dự báo gần đây của Chính phủ Thụy Điển về các chỉ số kinh tế vĩ mô trong năm 2014 là như sau:
- GDP: 2,1%;
- Tiêu dùng khu vực dân cư: 2,9%;
- Đầu tư công: 1,1%;
- Xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ: 2,3%;
- Nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ: 4,6%;
- Tỷ lệ lạm phát: 0,6%;
- Chỉ số năng suất lao động: 1,3%;
- Tỷ lệ thất nghiệp: 7,9% (giai đoạn từ 2006 đến 2014, ước tính đã tăng thêm được xấp xỉ 250.000 lao động xã hội);
- Tỷ lệ nợ công trong GDP: 40,2%.
Để đạt được những thành tựu, kết quả tích cực nêu trên, trong năm 2014, Chính phủ Thụy Điển đã và đang tích cực thực hiện các nhóm chính sách, biện pháp kinh tế chủ yếu là:
- Tiếp tục mục tiêu cải cách kinh tế tham vọng nhằm đảm bảo duy trì việc làm và phúc lợi xã hội;
- Cải tiến chất lượng nền giáo dục phổ thông góp phần vào mục tiêu phát triển kinh tế dài hạn, bền vững;
- Thực hiện chính sách kích cầu và kích cung thị trường lao động, bảo đảm trình độ và tay nghề người lao động đáp ứng phù hợp với nhu cầu sử dụng lao động của toàn xã hội;
- Cung cấp thêm nhà ở và hạ tầng giao thông công cộng hiệu quả;
- Tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, quản trị doanh nghiệp tốt và thúc đẩy đổi mới sáng tạo, trong đó có việc thông qua biện pháp cải tiến hệ thống thuế đối với khu vực doanh nghiệp;
- Tăng cơ hội tạo ra thu nhập và giảm chênh lệch về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư;
- Tăng điều kiện tiếp cận và năng lực chuyên môn trong lĩnh vực chăm sóc y tế;
- Tăng hiệu quả của hệ thống tư pháp nhằm giảm tỷ lệ tội phạm đang có chiều hướng gia tăng;
- Đáp ứng các thách thức về biến đổi khí hậu và môi trường toàn cầu;
- Ổn định hóa nền tài chính, tăng cường thặng dư ngân sách và giảm thiểu sự dễ tổn thương của một bộ phận dân cư trong xã hội;
- Thực hiện các chính sách tăng thu nhập đồng thời giảm chi tiêu ngân sách
KHUNG KHỔ PHÁP LÝ TRONG QUAN HỆ THƯƠNG MẠI, ĐẦU TƯ VIỆT NAM - THỤY ĐIỂN
Thụy Điển là nước thành viên của EU và Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), trong thời gian qua, quan hệ kinh tế thương mại và đầu tư giữa Việt Nam và Thụy Điển được điều chỉnh theo các luật lệ, quy định và thỏa thuận hiện hành của WTO và của khối EU với ASEAN và với Việt Nam.
Ngoài ra, với tư cách là một quốc gia đang phát triển có mức thu nhập trung bình thấp, trong thời qua, EU đã và đang dành cho Việt Nam Quy chế ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) sửa đổi, cụ thể: từ ngày 1 tháng 1 năm 2014, EU giảm thuế quan nhập khẩu đối với một số nhóm hàng của Việt Nam như: dệt may, giầy dép, đồ gỗ, rau quả, thực phẩm chế biến. Tuy nhiên, để vào được thị trường EU nói chung và Thụy Điển nói riêng, các mặt hàng dệt may, nông thủy sản của Việt Nam còn phải tuân theo các điều khoản phòng vệ thương mại và giám sát khá chặt chẽ của bạn về số lượng nhập khẩu.
Về quan hệ đầu tư: đến nay EU là một trong hơn 62 quốc gia/vùng lãnh thổ đã ký kết với Việt Nam về thực hiện hiệp định tránh đánh thuế hai lần, hiệp định bảo hộ đầu tư và chuyển lợi nhuận ra nước ngoài.
Về Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - EU (EVFTA): Việt Nam và EU chính thức khởi động đàm phán Hiệp định EVFTA vào tháng 6 năm 2012 tại Brussels, Bỉ. Đến nay đã trải qua 10 phiên đàm phán chính thức. Ngày 13 tháng 10 năm 2014 vừa qua, ngay sau phiên đàm phán thứ 10 tại Brussel, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng và Chủ tịch Ủy ban châu Âu José Manuel Barosso đã có buổi thảo luận về kết thúc đàm phán Hiệp định. Trong Tuyên bố chung, hai nhà lãnh đạo đã khẳng định tầm quan trọng của việc sớm kết thúc đàm phán Hiệp định trên cơ sở ghi nhận tiến triển rất tích cực và mức độ thỏa thuận đáng kể trong tất cả các lĩnh vực đàm phán. Đồng thời, hai nhà lãnh đạo đã thống nhất định hướng xử lý các vấn đề còn tồn tại để kết thúc đàm phán trong vài tháng tới.
Với việc ký kết và thực hiện Hiệp định, triển vọng quan hệ kinh tế thương mại và đầu tư giữa Việt Nam và Thụy Điển trong thời gian sắp tới sẽ được cải thiện lên một tầm cao mới, góp phần giúp Việt Nam mở rộng và đa dạng hoá thị trường xuất khẩu, tận dụng hiệu quả các cơ hội thị trường và các ưu đãi theo các cam kết quốc tế của hai bên.
2. TÌNH HÌNH TRAO ĐỔI THƯƠNG MẠI
Quan hệ thương mại giữa hai nước đến nay vẫn đang phát triển khá ổn định về cả giá trị và cơ cấu mặt hàng xuất, nhập khẩu. Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, kim ngạch xuất, nhập khẩu của Việt Nam với Thụy Điển cụ thể như sau:
Về mặt hàng xuất khẩu: Việt Nam chủ yếu xuất khẩu sang Thụy Điển các mặt hàng: thủy sản; cao su; sản phẩm từ chất dẻo; túi xách, ví, vali, mũ, ô dù; sản phẩm mây, tre, cói, thảm; gỗ và sản phẩm gỗ; hàng dệt, may; giày dép các loại; nguyên phụ liệu dệt may, da, giày; sản phẩm gốm, sứ; sản phẩm từ sắt thép, kim loại thường khác; máy vi tính, sản phẩm điện tử, và linh kiện; máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác; điện thoại các loại, và linh kiện; và đồ chơi, dụng cụ thể thao.
Về mặt hàng nhập khẩu:Việt Nam chủ yếu nhập khẩu các mặt hàng từ Thụy Điển là: máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng; dược phẩm; điện thoại các loại, và linh kiện; sản phẩm hóa chất, sản phẩm khác từ dầu mỏ; sắt thép, phế liệu sắt thép; gỗ và sản phẩm gỗ; chất dẻo nguyên liệu, sản phẩm từ chất dẻo; giấy các loại; máy vi tính, sản phẩm điện tử, và linh kiện.
Từ năm 2011 đến nay, ta luôn ở thế xuất siêu trong quan hệ trao đổi thương mại với bạn. Một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực truyền thống của Việt Nam đã có được vị thế khá ổn định tại thị trường Thụy Điển như: điện thoại các loại, linh kiện; sản phẩm điện tử, linh kiện; một số hàng thủy sản như cá basa và tôm; hàng dệt may; giày dép các loại; túi xách, ví, vali, mũ, ô dù; sản phẩm mây, tre, cói, thảm; gỗ và sản phẩm gỗ; sản phẩm gốm sứ.
3. TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ CỦA THỤY ĐIỂN TẠI VIỆT NAM
Về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Thụy Điển tại Việt Nam: theo thống kê gần nhất của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, lũy kế các dự án đầu tư còn hiệu lực của Thụy Điển đến ngày 20 tháng 11 năm 2014, Thụy Điển hiện đứng ở vị trí thứ 47 trong tổng số 101 nước/vùng lãnh thổ hiện có dự án đầu tư tại Việt Nam với 39 dự án còn hiệu lực và tổng vốn đầu tư đăng ký xấp xỉ 70 triệu USD.
Thiết bị hàng hải; thiết bị công nghiệp nặng, cơ khí; dược phẩm và thiết bị y tế; viễn thông; công nghiệp hàng dệt may và đồ nội thất; công nghiệp giấy; dịch vụ kiến trúc và xây dựng; và dịch vụ thương mại, phân phối./.
Theo Thương vụ Việt Nam tại Thụy Điển.